“Nghiêm Tử Lăng?”
Lý Dục Thần và Nghiêm Tuệ Mẫn đồng thời giật mình.
Nếu mà so sánh, kỳ thật Lý Dục Thần giật mình nhiều hơn.
Nghiêm Tuệ Mân chỉ tưởng rằng Nghiêm Cẩn nằm mơ, nhưng Lý Dục Thần biết không phải là nằm mơ đơn gián như vậy.
Vấn đề hẳn nằm ở trong chiếc bút hoặc quyển sách kia.
Nghiêm Cẩn nói tiếp: “Từ đó về sau, ngài ấy sẽ thường xuyên chạy vào trong mộng của em lúc em đang luyện chữ, còn dạy em rất nhiều thứ. Nhưng vài thứ kia em rất khó hình dung và miêu tá, không biết có phái là những thứ mà anh rể đang nói đến kia không”.
Lý Dục Thần gật gật đầu, Tiên Nhân dạy học đều dùng thần niệm giao lưu, rất nhiều thứ không thể dùng chữ viết biểu thị, cho nên các đời đan kinh đạo thư đều trúc trắc, tối nghĩa, khó hiếu.
Nghiêm Cấn cho râng mình đang ở trong giấc mơ, thật ra đó không phái là mơ, cậu ta chỉ đang rơi vào trạng thái nhập định giống như ngồi thiền.
Đây là cánh cứa đầu tiên mà người tu hành phái bước qua, bao nhiêu người bởi vì khó nhập định, hoặc thời gian nhập định không dài mà không thể đi sâu tu hành trong thời gian dài.
Tên nhóc này quả thật là người may mắn, trong cây bút lại ấn giấu một ông cố nội.
“Đây là cơ duyên của riêng cậu, cậu phải biết quý trọng nó”, Lý Dục Thần nói: “Nếu trong hiện thực cậu chưa có sư phụ, tôi dạy cho cậu vài thứ hẳn cũng không sao”.
Nghiêm Cấn mừng rỡ hỏi lại: “Anh rể, anh chịu dạy em võ công?”
Lý Dục Thần trả lời: “Không phái võ công, cậu luyện võ công quá lãng phí, tôi dạy cho cậu pháp thuật”.
“Pháp thuật?”, Nghiêm Cấn mở to hai mắt, quá thực chẳng thể tin nổi: “Trên đời này thật sự có pháp thuật?”
Lý Dục Thần mỉm cười, nhẹ nhàng khoát tay, một ánh kiếm lao ra, bay quanh phòng ba vòng, sau đó vèo một cái bay ra khỏi cửa sổ.
Trong chớp mắt nó lại bay về, rơi vào trong tay Lý Dục Thần.
Anh xòe bàn tay ra, trong lòng bàn tay rỗng tuếch.
Nghiêm Cẩn nghẹn họng nhìn trân trối, hồi lâu sau mới nói: “Anh rể, đó là ảo thuật à?”
Lý Dục Thần cười ha ha: “Ảo thuật đều là giả, của anh là thật. Không tin em ra nhìn xem táng đá lớn bên ngoài cửa thôn đi”.
Nghiêm cẩn lập tức chạy ra ngoài.
Nghiêm Tuệ Mần nhìn theo bóng lưng cậu ta, suy ngẩm nói: “Cây bút Nghiêm Cẩn nhắc đến tôi có biết, là một chiếc bút lông bằng bạch ngọc gia truyền của nhà chúng tôi. ở chồ chúng tôi, lúc trẻ con đầy tháng đều phải cho chúng bốc thăm. Lúc ấy, đứa nhỏ Nghiêm Cẩn này bắt được cây bút. BỐ tôi rất vui vẻ, liền đưa bút bạch ngọc gia truyền trong nhà cho cậu ta. Chuyện này khiến chị dâu cá của tôi ghen ghét hồi lâu. Có điều, chuyện bố tôi cho cậu ta một quyến sách cố, thật ra tôi vẫn chưa biết. Đó hắn là “Quyến sách Tử Lăng” đi?”
“Ồ, “Quyển sách Tử Lăng” là thứ gì?”, Lý Dục Thần hỏi.
Nghiêm Tuệ Mần đáp: “Truyền thuyết, tổ tiên Nghiêm Tử Lăng nhà tôi có đế lại một quyến sách, nghe nói trong đó ghi lại rất nhiều bí mật có liên quan đến thành phố Mai, còn có lời đồn nói nó ghi chép lại manh mối về một báo tàng. Sau khi bố tôi bị bệnh, anh trai và chị dâu tôi không chí một lần tới hỏi về tung tích của “Quyển sách Tử Lăng”. Bố tôi đều nói không có thứ này”.
“Nếu bố bác cũng đã nói không có quyển sách này, tại sao bác lại hoài nghi ông ta đưa cho Nghiêm Cấn chứ?”, Lý Dục Thần hỏi lại.
“Tôi cũng chỉ là đoán mò. Có khá năng trong lòng tôi vân hy vọng có thứ này đi!”, Nghiêm Tuệ Mần nói.
Lúc này, Nghiêm Cẩn hưng phấn chạy vào, vừa nói vừa thờ không ra hơi: “Cửa thôn… Tàng… Trên táng đá ngoài kia có khắc chữ!”
Nghiêm Tuệ Mân mở miệng: “Nhìn tên nhóc cháu đi, chạy vội vã như vậy làm gì, trên táng đá ngoài cửa thôn đương nhiên có chữ”.
“Dám!”, Nghiêm Cấn lớn tiếng đáp.