Trans: Dae - Editor: Kouji
✫ ✫ ✫
Là một “Nhà Bói Toán” vừa đặt chân vào ngưỡng cửa thần bí học, Klein không dám khẳng định mình hiểu rộng biết nhiều. Tuy nhiên anh chắc chắn bản thân hiểu được nhiều thứ hơn người bình thường. Anh cũng biết rằng các thuật bói toán khác nhau có thể được chia thành ba loại dựa trên những quy chuẩn cụ thể.
Và những quy chuẩn đó được căn cứ theo nguồn gốc của ‘gợi ý’!
Phương pháp bói toán đầu tiên bao gồm bài Tarot, poler, lắc cảm xạ, que cảm xạ và những giấc mộng. Nó dựa trên Linh Tính của người xem bói cùng “gợi ý” lấy được khi kết nối với Linh Giới để giải thích kết quả xem bói. Nhưng con lắc cảm xạ và que cảm xạ yêu cầu Linh Tính, Thể Tinh Thần và Thể Tinh Linh rất cao. Nếu không phải Kẻ Phi Phàm thì không cách nào nhận được “gợi ý” chính xác và rõ ràng. Mà bói bài thì dùng ý nghĩa của các biểu tượng nhất định, khiến người thường có thể mơ hồ cảm thấy “gợi ý” và phân tích chúng. Còn giấc mộng thì nằm đâu đó giữa hai phương diện này.
Phương pháp thứ hai gồm có Linh Số tức con số tâm linh, chiêm tinh học và tất cả những loại hình bắt nguồn từ chúng. Người xem bói dựa theo những thông tin khách quen lấy từ những câu hỏi hoặc từ các thay đổi diễn ra tự nhiên để tính toán, suy luận, giải mã ra kết quả tương ứng. Ở phương pháp này, người nắm quyền chủ động là thầy bói chứ không phải người được bói.
Phương pháp tiếp theo dùng đến sức mạnh của thế lực thứ ba, tách biệt với thầy bói và người được bói. Đĩa tiên và bút tiên quen thuộc với Klein ở kiếp trước cũng thuộc loại này. Người ta sẽ dùng những nghi lễ để cầu được lời đáp trực tiếp từ những thế lực bí ẩn không xác định. Đa số người bình thường sẽ gặp phải thất bại. Nhưng thỉnh thoảng, họ vẫn có khả năng kết nối thành công với tồn tại đầy ác ý hoặc thứ chỉ cần tiếp xúc cũng đủ khiến con người phát điên. Và nó thường dẫn đến thảm kịch.
Thuật bói ma kính được Hanass Vincent đề cập thuộc về loại thứ ba. Trong thần bí học, những chiếc gương là cánh cửa kết nối với thế giới tâm linh, gắn liền cùng những thứ quỷ dị, xảo trá và bí ẩn. Do đó, Klein dừng chân ngoài phòng họp, ý định tìm hiểu xem thầy bói có tiếng này sẽ giải thích như thế nào. Anh sẽ căn cứ vào đó để quyết định xem liệu có cần thông báo cho đội trưởng tới xét đồng hồ gas của đối phương vào nửa đêm không.
Tất nhiên vẫn có cách an toàn để thực hiện bói ma kính. Đó chính là cầu lời giải đáp từ bảy vị thần chính thống. Chí ít, dù người bình thường rất khó nhận được bất kỳ “gợi ý” thực sự nào thì họ vẫn an toàn và không chịu hậu quả.
Những thuật bói ma kính được kiểm soát chặt chẽ bởi Kẻ Gác Đêm và Thế Phạt Giả đều là các thuật cầu xin sự giúp đỡ từ tà thần hoặc thực thể bí ẩn được thờ phụng trong các tổ chức ngầm. Mặt khác, bản thân tùy ý bịa đặt ra những thực thể bí ẩn cũng không được. Biết đâu một từ đơn, một đặc trưng nào đó sẽ có khả năng thu hút sự chú ý của những sự tồn tại chưa biết.
Trong thế giới tồn tại sức mạnh siêu nhiên này, những thuật bói toán như thế kết thúc một cách tồi tệ. Klein thậm chí còn nghi ngờ nguyên chủ, Welch và Naya đã thực hiện một loại “xem bói đen” tương tự dựa trên hướng dẫn trong cuốn sổ tay của gia tộc Antigonus.
Lúc này, Hanass cũng đang giải thích nguyên lý thuật bói ma kính và mô tả quy trình thực tế: “Đầu tiên, chọn ngày giờ phù hợp theo vị thần mà mình tín ngưỡng. Mọi người có thể quyết định bằng cuốn 《 Sổ tay Chiêm tinh 》 . Ví dụ, mọi người đều biết Chủ Nhật là tượng trưng cho Nữ thần Đêm Đen vì nó thể hiện sự nghỉ ngơi. Từ hai giờ đến ba giờ rạng sáng, chín giờ đến mười giờ sáng, mười sáu giờ đến mười bảy giờ chiều và hai mươi ba giờ đến nửa đêm đều liên quan đến mặt trăng; do Nữ thần cai quản. Do đó, những ai thờ phụng Nữ thần Đêm Đen có thể dùng thuật bói ma kính vào những khoảng thời gian trên trong ngày Chủ Nhật.”
Nền tảng vững chắc đấy… Klein khẽ gật đầu khi che giấu bản thân sau cánh cửa khép hờ.
Không thể không nói, trong tình huống bảy Đại giáo hội kiềm chế lẫn nhau, một số kiến thức thần bí quả thực đã bị rò rỉ ra bên ngoài. Điển hình là cuốn 《 Sổ tay Chiêm tinh 》cung cấp rất nhiều hàm nghĩa biểu tượng. Tuy nhiên, nếu không có Ma Dược và sức mạnh phi phàm thì người bình thường khó có thể đạt được hiệu quả như mong đợi.
“Thứ hai, hãy cẩn thận lau kỹ tấm gương. Nó phải là một tấm gương tráng bạc và được đặt ở vị trí tượng trưng cho mặt trăng trong nhà…” Hanass biểu diễn với đạo cụ trong tay.
“Không, thứ ông phải làm lúc này là sử dụng con lắc cảm xạ. Đầu tiên, chọn một vị trí và đọc nhẩm câu ‘Nơi này thích hợp để bói ma kính’ bảy lần trong đầu, sau đó quan sát hướng quay của mặt dây chuyền. Theo chiều kim đồng hồ là đúng, còn ngược là sai… Đương nhiên, nếu ông muốn cầu xin lời đáp từ một thực thể siêu nhiên hung ác thì vị trí không thành vấn đề. Quan trọng là ‘Nó’ có hứng thú đáp lại hay không...” Klein âm thầm sửa lại.
Lúc này, anh cảm thấy mình giống như một giáo viên đang lắng nghe học sinh trả lời.
Hanass Vincent không thể nghe thấy tiếng lòng của Klein. Ông ta tiếp tục mô tả chi tiết những điểm cần chú ý bằng tông giọng bình thường.
Khi các hội viên đã ghi chép xong, ông nói thêm: “Sau khi tắm rửa sạch sẽ, hãy chắc chắn rằng bản thân đã đóng hết rèm và khóa cửa lại. Tiếp đó, thắp một ngọn nến và đặt nó trước gương rồi thành tâm cầu nguyện vị thần mình tín ngưỡng. Cố giữ câu hỏi đơn giản nhất. Đừng thêm thắt cầu kỳ làm gì… Sau bảy lần cầu nguyện, nhặt gương lên và ném nhẹ xuống đất. Nhất định phải thật nhẹ nhàng… Hãy ghi nhớ dáng vẻ vỡ vụn của nó bởi đấy chính là “gợi ý” từ các vị thần… Tôi sẽ dạy qua cho mọi người về những biểu tượng chủ yếu.”
“Phù, đây là thuật bói ma kính chính thống.” Klein nhủ thầm khi thở phào một hơi. Anh bước vào phòng hội nghị và ngồi xuống vị trí cũ, uống cạn phần cà phê Southville còn lại trong một hớp.
Cái gọi là chính thống có nghĩa là ngay cả khi đạt được gợi ý thì người thường cũng không có cách nào giải mã hoàn toàn.
Còn những Kẻ Phi Phàm đã đi đến bước này, họ có thể trực tiếp nhìn thấy một số hình ảnh trong gương, giành được những tin tức rõ hơn nếu như được đáp lại!
Vì có rất nhiều biểu tượng hình thành sau khi gương vỡ nên Hanass đã phải giảng rất lâu. Cho đến lúc Edward Steve xem bói xong và quay về phòng thì ông ta vẫn chưa kết thúc.
Klein không hỏi Edward đã làm gì trong buổi xem bói hay sử dụng phương pháp nào. Đây là luật bất thành văn giữa những người xem bói với nhau. Một người đang nhập vai “Nhà Bói Toán” như anh tất nhiên phải chấp hành nó một cách nghiêm ngặt, trừ phi đối phương chủ động nhắc đến.
“Tôi thấy rằng nhiều khi cách diễn giải của chúng ta quá mập mờ. Dường như đang đón ý nói hùa theo nhu cầu, làm cho những người khác nhau đều có thể tìm thấy mô tả về bản thân từ trong những gì giải mã được.” Edward uống một ngụm trà đen Sibe và nhẹ nhàng thở dài, “Ví dụ như người đang trong nghịch cảnh và tai họa cuối cùng sẽ nhìn thấy ánh sáng hy vọng. He he, nhưng không ai biết khi nào ánh sáng đó mới đến. Đại loại như, cuộc hành trình này sẽ không được thuận buồm xuôi gió lắm, song bạn chắc chắn sẽ sống sót trở về. Hừm, người chết sao có thể phản bác lại tôi được chứ.”
Vì không lắng nghe từ đầu nên anh ta đã bỏ qua khóa bói ma kính của Hanass.
“Thiên lệch sống sót.” Klein cười nói thêm.
Thiên lệch sống sót đại khái có nghĩa là rất nhiều số liệu thống kê sẽ chỉ bao gồm những ai may mắn sống sót và bỏ qua những kẻ đã chết. Vì thế mà kết quả sẽ lộ rõ sự sai lệch.
“Ừ, Roselle Đại đế quả là một triết gia.” Edward cất lời ca ngợi.
Klein bưng ly rỗng lên, giả vờ nhấp một ngụm cà phê.
Suốt buổi chiều, những hội viên ở đây đều chìm đắm trong việc bói thước trắc tinh lẫn bói ma kính. Thỉnh thoảng, họ sẽ quay sang thảo luận với Klein và Edward.
Vào những lúc như vậy, Klein sẽ cố gắng hết sức để thực hiện nghĩa vụ của một thành viên không chính thức trong hàng ngũ Kẻ Gác Đêm. Cố gắng dẫn dắt họ tránh xa những ý tưởng nguy hiểm hoặc việc liên quan tới siêu nhiên. Có điều, điều anh muốn làm nhất lại không thành công. Một vài khách hàng đã đến đây, nhưng không ai chọn anh để xem bói.
“Có lẽ lần sau, mình cần chủ động tiếp đãi họ bằng những câu: “Bạn đang bị ám bởi vận rủi”, “Gần đây bạn đang kém may mắn”, hay “Những việc bạn làm sẽ không diễn ra suôn sẻ” chăng? Không, những thứ như vậy chẳng giống một ‘Nhà Bói Toán’ chút nào.” Với suy nghĩ đó Klein không thể không lắc đầu tự giễu. Anh nhặt cây gậy chống, đứng dậy và rời đi sau khi chào tạm biệt mọi người.
Khoảng năm rưỡi, Edward Steve mặc áo khoác và chuẩn bị đi khỏi câu lạc bộ thì bất ngờ trông thấy một bóng dáng quen thuộc.
“Chào buổi chiều, Glacis. Lâu rồi không gặp.” Anh mỉm cười chào hỏi người bạn cùng chung sở thích. Glacis đang mặc lễ phục, thắt nơ đen, trước ngực treo một chiếc kính độc nhãn.
Kế tiếp, anh cũng nhận ra người bạn này trông không được ổn lắm. Ngay cả mái tóc vàng mềm mại cũng trở nên xơ xác.
“Chào buổi chiều, Edward… khụ khụ.” Glacis đang ôm mũ đột nhiên lấy tay che miệng trong lúc ho khan vài tiếng.
Edward quan tâm hỏi: ‘Cậu bị ốm sao?”
“Bệnh rất nghiêm trọng. Thậm chí nó còn biến chứng thành viêm phổi. Nếu vợ tôi không tình cờ gặp được một dược sư lợi hại, nếu ông ta không đưa cho tôi mấy liều thuốc thần kỳ thì có lẽ anh đã phải viếng thăm tôi ở nghĩa trang rồi.” Giọng Glacis chứa đầy sự sợ hãi pha lẫn hạnh phúc.
“Chúa ơi, chuyện này thật khó tin. Trước đây cậu hãy còn khỏe mạnh như vậy mà. Nhìn cậu mà xem, bây giờ cậu đã suy yếu thế này rồi! Tôi nhớ lúc mình bói cho cậu vào tuần trước, đâu có dấu hiệu nào cho thấy sẽ mắc bệnh hiểm nghèo thế đâu.” Edward vẫy cây gậy chống, vừa thở dài đầy kinh ngạc.
“Lần tôi tự bói cho mình cũng ra kết quả giống vậy. Có lẽ bởi chúng ta không phải những thầy bói có trình độ. Hơn nữa… Hơn nữa…” Glacis bất chợt nhớ lại những gì đã xảy ra hôm thứ Hai. Vẻ mặt anh trở nên nghiêm trọng một cách bất thường.
Ngay khoảnh khắc đó, người phụ nữ xinh đẹp tên Angelica bước đến và cúi chào với một nụ cười êm dịu.
Sau khi hỏi thăm xong, cô ấy bày tỏ sự lo lắng cho sức khỏe của Glacis và đưa ra một số lời khuyên bảo. Sau đó, cô thuận miệng nhắc đến một việc. “Anh Glacis. Anh Moretti từng sử dụng dịch vụ bói toán của anh gần đây cũng đã gia nhập câu lạc bộ.”
“Người từng nhờ tôi xem bói lần trước?” Mắt Glacis ngay lập tức sáng lên. “Chúa ôi, anh ta đâu rồi?”
“Anh ấy vừa đi rồi.” Cả Angelica và Edward đều không hiểu được phản ứng bất thường của Glacis.
Glacis kích động tiến tới hai bước và nói: “Nếu lần sau anh ta tới mà không có tôi ở câu lạc bộ, thì xin cô hãy hỏi thời gian anh ta quay lại giùm tôi!”
“Glacis, chuyện gì đã xảy ra vậy? Anh Moretti đã làm gì cậu à?” Edward bối rối hỏi.
Glacis đưa tay lên và nhìn thẳng vào ánh mắt dò hỏi của Edward và Angelica. Anh hào hứng nói.
“Anh ta là một vị bác sĩ rất, rất, rất thần kỳ!”
Glacis thả tay xuống, dùng ba chữ ‘rất’ để nhấn mạnh và cao giọng hô.
Bảy giờ ba mươi phút tối, bên bàn ăn gia đình Moretti.
“Klein, sao em làm cố vấn mà lại phải đi làm sớm như vậy? Có phải mấy việc khẩn cấp ở công ty bảo vệ kia khá là nguy hiểm không?” Benson tách một miếng khoai tây từ đĩa thịt bò hầm khoai bằng chiếc nĩa trong khi nêu lên vấn đề một cách đầy lo lắng.
Klein cẩn thận nhổ hết xương ra khỏi món cá áp chảo và đáp bằng một câu trả lời đã được chuẩn bị từ trước: “Có một lô tài liệu lịch sử đang cần được chuyển ngay đến Backlund. Em phải có mặt để kiểm kê và chắc chắn rằng không có sơ sót. Anh biết đó, cái đám chỉ biết giơ nắm đấm kia hoàn toàn không hiểu một chữ Feysac cổ nào.”
Khi nghe thấy câu trả lời, Benson, người vừa mới nhai xong thức ăn, không thể không thở dài: “Tri thức đúng là quan trọng.”
Nhân cơ hội này, Klein lấy ra tờ 5 Bảng còn lại và đưa cho Benson: “Đây là khoản tiền thưởng thêm em mới nhận được hôm nay. Cũng đã đến lúc anh cần mua vài bộ đồ đàng hoàng rồi.”
“5 Bảng?” Benson cùng Melissa đồng thanh nói.
Benson cầm lấy tờ tiền rồi lật đi lật lại. Anh ta vừa sửng sốt vừa nghi ngờ nói: “Công ty bảo vệ này hào phóng thật…”
Lương hàng tuần của Benson chỉ có 1 Bảng 10 Saule, nghĩa là vừa tròn 6 bảng mỗi bốn tuần. Chỉ so với khoản tiền thưởng này nhiều hơn 1 Bảng. Với mức lương đó, anh đã xoay sở nuôi mấy đứa em của mình, cho chúng một nơi ở tử tế, được ăn thịt hai đến ba lần mỗi tuần và hàng năm đều có thêm một vài bộ đồ mới!
“Hai người không nghi ngờ em à?” Klein cố tình hỏi lại.
Benson cười khúc khích: “Anh không nghĩ em có năng lực hay lá gan để cướp nhà băng đâu.”
“Anh không phải là loại người có thể nói dối.” Melissa nghiêm túc đáp lời sau khi hạ dao và nĩa xuống.
“Mình… Mình hiện tại đúng là loại người miệng đầy dối trá…” Klein lập tức cảm thấy hơi chút xấu hổ. Mặc dù đây là hiện thực bức bách, nhưng lòng tin của em gái vẫn làm anh cảm thấy sầu muộn.
“Công việc hôm nay khá khẩn cấp và quan trọng. Em cũng đóng một vai trò chủ chốt trong đó. Thế nên mới nhận được 5 Bảng.” Klein giải thích.
Theo một mặt nào đó, những gì anh vừa nói đều là sự thật.
Đối với 5 Bảng sắp phát — số tiền vốn chuẩn bị dùng để gia nhập câu lạc bộ bói toán — anh đã lên kế hoạch giấu riêng. Một là nếu anh mang 5 Bảng nữa về nhà sẽ thật sự dọa sợ anh em mình, khiến cho họ nghi ngờ anh đang làm công việc phi pháp. Hai là anh còn phải tiết kiệm để mua thêm tài liệu luyện tập nhập vai “Nhà Bói Toán” và nắm bắt thêm nhiều kiến thức thần bí.
Benson hài lòng cắn một ngụm bánh mì và suy nghĩ hơn mười giây: “Công việc anh hiện giờ không cần phải ăn mặc tươm tất. Hừm, nói đúng hơn là không cần quần áo có vải vóc tốt. Mà ở nhà có đủ đồ rồi.”
Không đợi Klein khuyên giải, Benson đã chủ động đề nghị, “Với khoản tiền thu nhập thêm này, chúng ta coi như đã có tiền tiết kiệm thực sự. Anh dự định mua vài cuốn sách về kế toán để nghiên cứu. Klein, Melissa, anh không muốn hai năm nữa lương một tuần của anh vẫn ở dưới 2 Bảng. Mấy đứa biết đấy, trong đầu sếp với tay quản lý của anh rót toàn phân, há mồm là bốc mùi kinh khủng.”
“Ý tưởng tuyệt vời,” Klein đồng ý, tiện thể dẫn dắt một câu, “Sao anh không thử đọc một vài cuốn sách văn pháp trong phòng em nhỉ? Nếu muốn trở thành người có thể diện thực sự và nhận được mức lương hậu hĩnh thì đó là một yếu tố khá quan trọng.”
Có lẽ không lâu nữa, kỳ thi công chức sẽ xuất hiện ở Vương quốc Loen. Việc chuẩn bị trước sẽ mang lại lợi thế cho Benson.
Nghe vậy, mắt Benson tỏa sáng: “Anh thật sự đã quên chuyện này. Nào, hãy cùng nâng ly chúc mừng một tương lai tốt đẹp của chúng ta.” Thay vì uống bia lúa mạch đen, anh rót canh hàu vào ba cốc rồi cụng chúng với mấy đứa em của mình.
Uống cạn nước canh, Klein quay sang đứa em gái đang hăng hái chiến đấu với món cá áp chảo. Anh cười khẽ: “Ngoài mấy cuốn sách của Benson, anh nghĩ là Melissa cũng cần một bộ váy mới.”
Melissa nhìn lên và lắc đầu lia lịa: “Không, em nghĩ tốt nhất là…”
“Để dành khoản đó.” Klein đã hoàn thành nốt câu nói giùm cô em gái.
“Ừm.” Melissa gật mạnh.
“Trên thực tế, miễn là em không chọn loại vải tốt nhất và thiết kế mới nhất thì nó sẽ không quá đắt. Chúng ta cũng sẽ có thể tiết kiệm được tiền thừa còn lại.” Klein nói với thái độ không cho phép từ chối.
Benson tiếp lời, “Melissa, em đang định mặc lại bộ váy cũ để đi dự dạ tiệc sinh nhật thứ 16 của Selena à?”
Selena Wood là bạn tốt và cùng lớp với Melissa, xuất thân từ một gia cảnh khá giả. Anh trai cô là một cố vấn pháp luật, còn cha là nhân viên lâu năm tại chi nhánh Tingen của ngân hàng Backlund.
Chẳng qua, cái gọi là dạ tiệc chỉ đơn thuần là mời bạn bè đến ăn tối, nói chuyện phiếm hoặc chơi bài mà thôi.
“Được rồi.” Melissa hạ thấp đầu lầm bầm. Sau đó, cô chọc mạnh vào một miếng thịt bò.
Sau một khoảng lặng ngắn, cô chợt nhớ ra thứ gì đó và đột ngột nhìn lên: “Bà Shaud hàng xóm vừa nhờ người giúp việc gửi một tấm thiệp sang. Vì mong làm quen với hàng xóm mới nên bà ấy sẽ ghé thăm chúng ta theo kiểu nửa chính thức vào chiều Chủ Nhật ngày mai, tầm bốn giờ chiều ấy.”
“Bà Shaud?” Klein mù mờ nhìn vào anh em của mình.
Benson gõ ngón tay vào thành bàn và có vẻ suy tư: “Bà Shaud ở nhà số 4 phố Thủy Tiên Hoa? Anh đã gặp chồng bà ấy trước đó. Ông ấy là một cố vấn luật lâu năm.”
“Cố vấn luật lâu năm… Có lẽ ông ấy sẽ biết anh trai của Selena,” Melissa nói với một chút mừng rỡ hiện trên mặt.
“Chúng ta đang sống ở nhà số 2 phố Thủy Tiên Hoa…”
Klein hơi gật đầu: “Đúng là chúng ta cần phải làm quen với hàng xóm của mình, nhưng mà hai người biết đấy, Chủ Nhật em vẫn phải tới công ty, chỉ thứ Hai mới được nghỉ. Nên là hãy chuyển lời xin lỗi đến bà Shaud giúp em.”
Nói đến đây, Klein nhớ lại người hàng xóm ở kiếp trước lúc còn nhỏ cũng như những hàng xóm trong căn hộ ở phố Thiết Thập Tự. Anh vừa cảm thấy vui vẻ vừa khẽ thở dài: “Thăm kiểu nửa chính thức? Bộ hàng xóm không làm quen nhau qua giao tiếp thông thường và tự nhiên được à?”
“Ha ha, Klein, em không rõ rồi. Mặc dù gần đây em đã đọc nhiều báo chí, nhưng lại chưa hề xem qua những tạp chí dành cho gia đình và phụ nữ. Họ gọi các gia đình có thu nhập hàng năm từ 100 đến 1000 Bảng là tầng lớp trung lưu, tuyên dương đây là trụ cột của cả Vương quốc, ca ngợi cách tầng lớp trung lưu không có sự kiêu ngạo của quý tộc và nhà giàu có, cũng như không thô lỗ giống những người thu nhập thấp.” Benson nhẹ nhàng giải thích theo một cách vui vẻ, “Những tạp chí này đơn giản hóa không ít nghi thức kết giao của giới quý tộc, coi đó là tiêu chí của tầng lớp trung lưu. Vậy nên, điều này dẫn đến sự khác biệt giữa các cuộc gặp thân mật, thăm kiểu nửa chính thức và thăm chính thức.”
Vừa nói, Benson vừa lắc đầu cười: “Thông thường, các quý ông, quý bà và tiểu thư tự coi mình thuộc tầng lớp này sẽ rất để ý đến những tiểu tiết như thế. Bọn họ sẽ đến thăm hàng xóm và bạn bè từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, gọi là thăm sáng sớm.”
“Thăm sáng sớm?” Klein và Melissa ngạc nhiên hỏi. Hai giờ chiều đến sáu giờ tối thì sáng sớm nỗi gì?
Benson đặt nĩa và dao xuống, nhún vai cười: “Không biết tại sao lại thế nữa. Anh chỉ đọc tạp chí mà đồng nghiệp nữ mang tới mà thôi. Ừm, chắc là do họ mặc lễ phục buổi sáng đến thăm...”
Ban đầu, lễ phục buổi sáng là một dạng lễ phục dùng cho Thánh lễ Misa và các cuộc hội nghị. Về sau, nó được xem là trang phục chính thức vào ban ngày, khác với dạ phục ban đêm.
“Được rồi. Sáng mai hai người nhớ đi mua một ít bột cà phê và lá trà loại tốt nhé. Mua thêm vài cái bánh xốp và bánh bông lan chanh ở chỗ bà Sling nữa. Chúng ta không thể thất lễ với hàng xóm được.” Klein cười một tiếng, nhúng phần bánh mì còn lại vào nước sốt, kẹp lấy một ít khoai tây rồi cho vào miệng.
Ngày hôm sau, tức là sáng sớm Chủ Nhật.
Klein uống nốt ngụm trà kém chất lượng còn lại, đặt tờ báo xuống rồi đội lên chiếc mũ chóp nửa cao lên. Anh cầm cây gậy chống đen dát bạc, chậm rãi rời nhà và bắt chuyến xe công cộng đến phố Zouteland.
Anh chào Rozanne, người đang định ngủ bù trong phòng nghỉ sau khi vừa hoàn thành ca trực đêm. Ở khúc quanh, anh bắt gặp một đội viên của Kẻ Gác Đêm —— “Kẻ Không Ngủ” Royale Raideen.
Cô trông giống một người phụ nữ lạnh lùng. Lông mày cô dài và mảnh, nằm phía trên một đôi mắt to tròn và có mái tóc đen dài suôn mượt.
“Buổi sáng tốt lành, cô Raideen.” Klein mỉm cười chào hỏi.
Royale liếc đôi mắt xanh sâu thẳm của mình về phía anh rồi hơi gật đầu đáp lại.
Lúc hai người lướt qua nhau, Royale bỗng sững lại và nói với đôi mắt trạm thẳng về phía trước, “Nghi lễ ma thuật là một thứ rất nguy hiểm.”
Klein hơi kinh ngạc. Ngay khi quay lại, anh chỉ có thể thấy bóng lưng của đối phương.
“Cảm ơn.” Anh cau mày, khẽ hô với theo bóng lưng của Royale Raideen.
Sau khi rẽ trái, anh nhanh chóng chạm mặt lão Neil đang trực ở kho vũ khí và Bredt đáng lẽ ra không nên có mặt ở đây.
“Đi thôi, đi đến nhà tôi nào. Tôi đã nhận được đủ tài liệu tương ứng rồi. Bredt cũng đã đồng ý xem chừng kho vũ khí thay tôi.” Lão Neil hớn hở nói.
Klein lập tức ngạc nhiên: “Chúng ta không thực hiện ngay tại đây à?”
Lão Neil đang cầm một chiếc gương bạc “chậc” một tiếng: “Chỗ này không có đủ không gian để thực hiện nghi lễ ma thuật.”
Klein không hỏi gì thêm. Anh theo sau lão Neil lên phố và bắt một chuyến xe công cộng đến ngoại ô khu Bắc.
Nơi ở của lão Neil là một tòa biệt thự. Khu vườn trước nhà tràn ngập hoa hồng, bạc hà vàng và các vật liệu khác.
Lúc bước vào, anh trông thấy một tiền sảnh được trải thảm. Có hai chiếc ghế cao tựa lưng cùng một giá để ô.
Một phòng khách rộng rãi nằm phía bên kia tiền sảnh. Tường nhà được dán bằng giấy màu sáng. Sàn nhà màu nâu sẫm. Giữa phòng có một tấm thảm nhỏ in hình hoa cỏ và nằm trên đó là chiếc bàn tròn nặng nề. Xung quanh chiếc bàn có những chiếc ghế dài trông đầy thoải mái, ghế đơn và một cây đàn piano.
“Người vợ quá cố của tôi rất yêu âm nhạc.” Lão Neil chỉ tay về phía chiếc piano và thuận miệng nói, “Ghế sofa và bàn cà phê nằm trong phòng khách… Chúng ta sẽ thực hiện nghi lễ ma thuật luôn ở đây.”
“Vâng.” Klein trả lời đầy thận trọng.
Sau khi đặt chiếc rương bạc xuống, lão Neil cười bảo: “Sau đây, tôi sẽ làm mẫu một nghi lễ cho cậu xem. Chú ý quan sát và ghi nhớ đấy.”
Vừa nói, lão vừa lấy ra tấm giấy da dê giả từ trong rương. Nó được chế tạo một cách đặc biệt và có những hình ảnh kỳ lạ được vẽ trên đó bằng mực đen, thứ toát lên một mùi thơm thư thái.
Trong lúc nhìn đi nhìn lại, Klein phát hiện rằng lão Neil dường như, trông như, rất có thể đang viết một tờ hóa đơn!
Khi lão Neil điền con số “30” và ký hiệu “Bảng” vào vị trí tương ứng, Klein không khỏi hỏi trong bối rối và nghi ngờ: “Ông Neil, ông đang làm loại nghi lễ ma thuật gì vậy?”
Lão Neil ho khan rồi trả lời rất là nghiêm túc: “Hôm nay tôi sẽ dùng ma thuật để giải quyết khoản nợ 30 Bảng đó.”
Ông có thể làm vậy nữa hả?
Klein mở to mắt trong khi há hốc mồm.
“Dùng ma thuật để giải quyết nợ nần? Ông định rủa chết chủ nợ hay tạo tiền giả vậy? Dẫu ta không thể giải quyết được vấn đề, nhưng ta có thể xử lý ngươi?” Đủ loại suy nghĩ hiện lên trong đầu của Klein khi anh nhìn lão Neil bằng ánh mắt là lạ.
Anh đang nghiêm túc cân nhắc khả năng mình sẽ gọi cảnh sát. À, đúng hơn là báo cho tiểu đội Kẻ Gác Đêm.
Lão Neil liếc nhìn anh và nói với giọng không vui: “Tôi có thể thấy sự dốt nát, ngu xuẩn cùng sự tin tưởng yếu đuối đáng xấu hổ trong mắt cậu. Dunn chưa dạy cho cậu câu châm ngôn ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ hay sao? Làm gì thì làm, nhưng chớ gây tổn thương!
"Mặc dù câu châm ngôn này bắt nguồn từ Hội Khổ Tu Moses bí ẩn và tà ác, nhưng những Kẻ Phi Phàm chọn đi theo con đường ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ đã dùng kinh nghiệm bản thân để chứng minh nó chính xác như thế nào. Chỉ cần tuân thủ nghiêm ngặt nó, kính sợ nó thì nguy cơ mất khống chế sẽ được giảm thiểu xuống mức thấp nhất. Ngược lại cũng vậy.
"Sự nghi ngờ của cậu là một sự nhục mạ đối với tối, đối với ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ !”
“Thứ lỗi cho tôi.” Klein không ngần ngại xin lỗi. Anh quả thật đã quên rằng Dunn Smith từng nhắc đến câu châm ngôn này.
Lão Neil chưa thật sự tức giận, đảo mắt cái đã cười thầm: “Đáng tiếc, rất ít Kẻ Phi Phàm chọn làm một “Nhà Bói Toán”, không có phương châm tương ứng nào có thể hỗ trợ cậu.”
“Nhưng tôi lại có cuốn nhật ký của Roselle Đại đế… Ừm, việc tuân thủ châm ngôn một cách nghiêm ngặt cũng khá giống với ‘nhập vai’...” Klein chợt nảy ra một liên tưởng, anh gật đầu như thể đang chìm trong suy tư.
Lão Neil không tiếp tục nói nữa mà lấy bình hoa cùng các vật dụng khác khỏi chiếc bàn tròn rồi đặt chúng vào một góc. Ngay sau đó, lão vừa cầm một cây nến màu đỏ tươi và một cây nến đen đặc trong chiếc rương bạc ra, vừa thuận miệng giảng giải: “Nếu người bình thường muốn thử nghi lễ ma thuật, họ bắt buộc phải dõi theo kết quả chiêm tinh hoặc đọc qua sách hướng dẫn tương tự để chọn đúng ngày giờ. Ví dụ như Chủ Nhật là đại diện cho Nữ Thần, ứng với thời kỳ khi Ngài cai trị mặt trăng. Nhưng đối với Kẻ Phi Phàm chúng ta, nhất là những Kẻ Phi Phàm giỏi về lĩnh vực này thì không cần mấy điều đó. Linh Tính và Thể Tinh Linh mạnh mẽ của chúng ta mới là yếu tố quan trọng nhất.
“Tất nhiên, nếu cậu không tự tin với nghi thức ma thuật mình đang thử thì có thể chọn ngày giờ phù hợp. Nó sẽ giúp tăng xác suất thành công lên.
“Chẳng qua, có một điều kiện tiên quyết mà cậu nhất định phải nhớ kỹ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt!"
Lão Neil đặt xong hai ngọn nến, bèn nghiêng người sang bên cạnh nhìn Klein: “Do bản thân người ở Danh Sách thấp chưa đủ mạnh, hầu hết những nghi lễ ma thuật họ có thể thực hiện đều là tìm kiếm sức mạnh và giúp đỡ từ bên ngoài. Vì thế, chỉ nên cân nhắc mời đến những vị thần chính thống như Nữ Thần hoặc Chúa tể Gió Bão. Tuyệt đối, tuyệt đối đừng thử giao tiếp với những tồn tại bí ẩn không thể đoán trước. Ngay cả khi có người tín ngưỡng chúng hay lời hứa nguyện được ghi lại có cám dỗ ra sao chăng nữa!
“Tin tôi đi, đừng trông chờ vào sự may mắn. Cậu chỉ cần thử một lần thôi là sẽ mãi trượt dốc xuống vực sâu mà không thể quay đầu. Mọi cố gắng hay thử chống lại đều chỉ làm nó chậm đi chứ không có cách nào xoay chuyển được tình thế đâu.”
“Tôi sẽ ghi nhớ điều này!” Klein trầm giọng đáp, trong lòng không khỏi chột dạ. Nghi lễ đổi vận của mình có vẻ cũng là cầu xin sức mạnh từ một tồn tại bí ẩn và khó đoán… Hơn nữa còn thực sự lấy được một thứ sức mạnh mà Kẻ Phi Phàm lâu năm như Người Treo Ngược cũng cảm thấy khó tin, sức mạnh kéo người khác lên trên sương xám. Ừm, anh ta hẳn là một Kẻ Phi Phàm lâu năm…
“Điều đáng mừng là mình còn chưa điên hay có dấu hiệu mất khống chế…” Anh chủ động thay đổi chủ đề trong khi vẫn còn sầu lo về chuyện này: “Bởi vậy, Kẻ Gác Đêm tốt nhất chỉ nên cầu xin Nữ Thần ạ?”
“Nếu cậu muốn cầu xin Chúa tể Gió Bão thì cũng không ai cản cả. Nhưng chưa chắc Ngài đã đáp lại, hoặc có thể đáp lại với ý đồ xấu. Vậy sẽ khiến kết quả nghi thức ma thuật của chúng ta bị bóp méo theo cách không lường trước được.” Lão Neil đã làm Klein từ bỏ tâm lý ăn may bằng một thái độ đùa cợt.
Không có cái gì gọi là tốt nhất, chỉ có nhất định phải!
Dặn dò xong xuôi, lão Neil cầm lên cây nến đỏ tươi lên và nói: “Ngọn nến làm từ hoa Ánh Trăng và gỗ Đàn hương đỏ sẫm sẽ đại diện cho thân phận Chúa tể Sắc Đỏ của Nữ Thần trong buổi nghi thức ma thuật.”
Rồi lão chỉ về phía ngọn nến đen đặc: “Cây nến làm từ cỏ Dạ Hương và hoa Thâm Miên là tượng trưng của đêm đen.”
Trong khi nói, lão đặt ngọn nến đen lên vị trí bên trái chiếc bàn tròn, còn ngọn màu đỏ thì đặt ở phía bên phải.
“Tại sao tượng trưng cho Nữ Thần chỉ có hai ngọn nến ạ? Người còn là Tổ mẫu của những điều ẩn giấu, Đế vương của kinh hoàng và bất hạnh, Chủ nhân của tĩnh lặng và sự yên nghỉ nữa mà.”
Lão Neil cười một tiếng: “Đúng rồi. Đó chính là điều mà tôi hy vọng cậu sẽ thắc mắc.
“Trước khi sa đọa, Hội Khổ Tu Moses từng có mối quan hệ rất tốt với Giáo hội. Một vài quan niệm và thành quả trong nghi lễ ma thuật của họ đã ảnh hưởng sâu sắc đến chúng ta.
“Bọn họ tin rằng mọi vật thể đều là con số. Mọi con số đều có linh tính riêng. Trong nghi lễ ma thuật, số 0 đại diện cho những điều chưa biết và hỗn loạn. Nó tượng trưng cho trạng thái trước khi vũ trụ được sản sinh. Số 1 tượng trưng cho khởi đầu, đại biểu cho Đấng Sáng Tạo ban đầu. Số 2 tượng trưng cho thế giới và các thánh thần được tạo ra từ cơ thể của Ngài. Số 3 tượng trưng cho sự tiếp xúc giữa thần thánh và vật chất, vạn vật thành hình. Và ở đây, chúng ta dùng hai cây nến tượng trưng cho Nữ Thần, còn cây thứ ba là bản thân mình.
"Cụ thể dùng hai ngọn nến nào, hai loại biểu tượng nào, thì phụ thuộc vào kết quả mình muốn nhận được từ nghi thức ma thuật.”
Tam sinh vạn vật? Vạn vật đều là tam? (1) Klein không khỏi nhớ đến một vài thứ từ kiếp trước.
Thấy Klein đang chăm chú lắng nghe, lão Neil lấy ra cây nên thứ ba và bảo: “Đây là cây nến đại diện cho ‘tôi’. Đó là một cây nến rất đỗi bình thường, chỉ được thêm vào một chút bạc hà. Cậu hãy lưu ý rằng hoa cỏ như hoa hồng, bạc hà, hoa Ánh Trăng, cỏ Dạ Hương, và hoa Thâm Miên đều được Nữ Thần yêu mến và âu yếm. Nhìn từ một góc độ khác thì ba ngọn nến tượng trưng cho thể xác, linh tính và thần tính của mỗi người."
Sau khi giải thích xong, lão Neil đặt ngọn nến thứ ba vào giữa chiếc bàn tròn rồi lấy ra một chai “Tinh dầu trăng tròn” đã được pha chế, một cái vạc lớn có khắc Hắc Dạ Thánh Huy, một con dao bạc với hoa văn tuyệt đẹp, một cốc nước tinh khiết cùng đĩa muối thô.
“Với những Kẻ Phi Phàm không am hiểu nghi thức ma thuật mà nói, còn phải có các vật phẩm bổ trợ khác như chuông, cầu pha lê, cốc bạc và hương xông. Song ‘Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn’ hay ‘Nhà Bói Toán’ không cần tới chúng. Những đồ vật này là đủ rồi.”
Lão Neil đặt tờ giấy nợ giả da ngay dưới cái vạc, dùng một cây bút lông đặc biệt để đè một góc lại.
Lão nghiêng người bảo Klein: “Nghi thức ma thuật cần một môi trường Linh Tính thuần khiết, không bị quấy rầy. Mà cái này nhất định phải do chính chúng ta tạo ra. Bước đầu tiên là tiến vào trạng thái minh tưởng, tập trung tinh thần, sử dụng những vật phẩm phụ trợ rút ra sức mạnh trong người mình để xây dựng kết giới xung quanh. Ví dụ như phấn Thánh Dạ tôi đã dùng ở nhà Ray Bieber, hay con dao bạc mà tôi chuẩn bị sử dụng cho nghi lễ này.
“Trong suốt quá trình này, chúng ta cần phải xác định trước biểu tượng và câu thần chú tương ứng dựa trên kết quả muốn có. Thần chú thì đọc bằng tiếng Hermes cổ là tốt nhất. Vì nó có nguồn gốc từ tự nhiên, tương tự như tiếng Rồng cổ và tiếng Tinh Linh cổ. Tuy hiệu quả của nó rất trực tiếp, nhưng lại thiếu tính bí mật và bảo vệ cần thiết, dễ khiến cho người sử dụng rơi vào nguy hiểm. Đây chính là lý do tiếng Hermes cổ bị cải tiến. Có điều, nó quả thực hữu hiệu hơn hẳn.
“Được rồi, tôi phải tập trung vào nghi thức ma thuật đã, không giải thích thêm cho cậu nữa. Nhớ chú ý và nghe cho kĩ, ghi nhớ các vấn đề, chờ khi nào kết thúc thì hỏi lại tôi sau."
“Vâng.” Klein lùi lại hai bước và trạm thẳng mắt về phía lão Neil.
Mắt lão Neil nhanh chóng tối lại. Cơn gió vô hình xoay tròn xung quanh lão.
Lão im lặng trong một lúc, rồi đi từ trái qua phải, từ trên xuống, dùng tinh thần ma sát với vật chất để lần lượt thắp sáng ba ngọn nến. Tiếp đến, lão đâm con dao bạc vào chồng muối thô, miệng thì niệm thần chú tiếng Hermes: “Ta thánh hóa ngươi, lưỡi dao bạc nguyên chất!”
“Ta rửa sạch và thanh tẩy ngươi, để ngươi hầu ta trong nghi thức này!”
….
“Nhân danh Nữ thần Đêm Đen, Chúa tể của Sắc Đỏ. Ngươi đã được thánh hóa!”
Sau một vần điệu cổ xưa ngắn nhưng đầy mạnh mẽ, lão Neil nhúng con dao bạc vào cốc nước tinh khiết. Kế đến, lão nâng nó lên và chĩa vào khoảng không bên ngoài chiếc bàn tròn.
Lão nhắm mũi dao ra vòng ngoài, tiến lên một bước, đi xung quanh chiếc bàn. Mỗi bước chân, Klein đều có thể cảm nhận được một nguồn năng lượng vô hình phun ra từ con dao bạc. Nó chứa đầy linh tính, kết nối với không khí, tạo thành một bức tường bị bịt kín hoàn toàn.
Sau khi đi được một vòng, bàn thờ hoàn toàn bị cách ly với xung quanh.
Lão Neil đứng trước bàn tròn, đặt con dao bạc xuống, cầm lên lọ 'Tinh dầu Trăng tròn' rồi nhỏ ba giọt lên ngọn nến đen, đỏ sẫm và ngọn bình thường.
Xì, xì! Một làn sương mỏng lan tỏa, khiến mọi thứ trông thật thần bí.
Lão Neil đặt lọ thủy tinh xuống, lặng lẽ nhìn vào tấm giấy giả da trong hai phút. Rồi lão cầm bút lông lên, vẽ một con dấu kiểm soát trên “hóa đơn”. Đó là một khung vuông bao quanh nội dung, biểu hiện rằng lão đang kiểm soát hết nợ nần. Sau đó, lão vẽ thêm một đường gạch chéo, tỏ ý rằng nó bị hủy bỏ.
Đến bước này, lão cầm tấm giấy da lên bằng một tay và gõ nhẹ vào vùng giữa trán bằng tay còn lại để kích hoạt Linh Thị
Một nguồn năng lượng vô hình và mạnh mẽ khác nở rộ trong khi lão Neil khẽ thì thầm lời niệm chú:
“Tôi cầu xin sức mạnh từ Đêm Đen;
“Tôi cầu xin sức mạnh từ sắc đỏ thẫm;
“Tôi cầu xin sự quan tâm từ Nữ Thần;
“Làm ơn, hãy ban cho tôi nguồn vốn để thanh toán khoản nợ này;
“Cỏ Dạ Hương, loại thảo mộc thuộc về mặt trăng đỏ, xin hãy truyền sức mạnh của mi vào câu thần chú của ta!
“Hoa Ánh Trăng, loại thảo mộc thuộc về mặt trăng đỏ, xin hãy truyền sức mạnh của mi vào câu thần chú của ta!”
Klein đứng gần đó, cảm thấy hoàn toàn chết lặng. Vô số ý nghĩ thi nhau khuấy động lòng anh: Câu thần chú thế này có thể hoạt động à? Mặc dù là nó được viết và đọc bằng tiếng Hermes. Nhưng, cách này không khỏi quá mộc mạc, quá đơn giản sao? Liệu Nữ thần có tức giận và nhân món nợ lên gấp mấy lần không?
Ngay khoảnh khắc đó, ngọn nến bất ngờ sáng lên!
Khi lão Neil hoàn thành câu chú của mình, ông nhắm mắt lại trong hai phút đồng hồ, rồi cầm ‘Tinh dầu Trăng tròn’ lên và nhỏ lên ba ngọn nến kia mỗi cây giọt.
Kế tiếp, lão chộp lấy tấm giấy giả da, để sát nó vào ngọn nến tượng trưng cho “tôi”, chờ nó vừa bắt lửa là ném ngay vào trong cái vạc lớn. Lão Neil khép đôi mắt thêm một lần nữa, như thể đang cảm nhận tờ giấy nợ bốc cháy.
Sau một lúc, lão mở mắt ra và nhìn thẳng đến phía chiếc vạc khắc Hắc Dạ Thánh Huy, thấy tấm giấy giả da đã bị thiêu hủy sạch sẽ, chỉ còn lại một lớp tro tàn.
“Ngợi ca Nữ thần!” Lão Neil điểm bốn phía lên ngực, tạo thành hình mặt trăng đỏ trước khi tắt những ngọn nến theo thứ tự ngược lại so với lúc thắp sáng chúng.
Sau khi mọi việc đã hoàn thành, lão xé bức tường vô hình xung quanh bằng con dao bạc.
Một cơn gió lớn đột nhiên nổi lên, còn lão Neil thì thở phào nhẹ nhõm: “Xong rồi.”
“Chỉ có nhiêu đó thôi?” Klein lấy làm lạ hỏi, “Tờ giấy nợ đó bị giải quyết chưa? Bằng cách nào thế?”
“Tôi cũng không biết. Tóm lại là nó sẽ được giải quyết theo một cách hợp lý.” Lão Neil nhún vai cười nói.
Klein không biết nên dùng biểu cảm hay từ ngữ nào để đáp lại.
Không phải cái này có chút thiếu tin cậy sao?
“Đừng có nghĩ đến cái giấy nợ chết tiệt đấy nữa. Thay vào đó chúng ta hãy thảo luận về nghi lễ ma thuật đi.” Lão Neil đặt mấy cây nến, vạc, con dao bạc và những vật khác qua một bên với một vẻ mặt thả lỏng.
Klein rất muốn nhún vai, nhưng cuối cùng cũng chẳng thực hiện được hành động thiếu lịch thiệp đó. Anh chuyển sự chú ý vào nghi lễ ma thuật, ném ra những câu hỏi chi tiết về điều mà bản thân không hiểu —— và nhận lại những lời giải đáp của chúng. Ví dụ như những câu thần chú đều có cấu trúc nhất định. Miễn sao thỏa mãn được yêu cầu của chúng và ý chính được thể hiện rõ ràng bằng ngôn ngữ Hermes, thì phần còn lại có thể tùy ý bịa đặt. Tất nhiên là những lời miêu tả xúc phạm hoặc bất kính đều bị nghiêm cấm.
Buổi học thần bí kéo dài đến tận trưa. Khi ấy, lão Neil ho nhẹ hai tiếng: “Chúng ta phải quay lại phố Zouteland thôi.”
Dứt lời, lão càu nhàu với một thái độ mờ mịt: “Tôi đã bỏ lỡ cả bữa sáng thân yêu chỉ để tìm ra mớ tài liệu chết dẫm đó.”
Klein có chút muốn cười, anh nghi hoặc hỏi: “Ông Neil, nhà ông không có đầu bếp à? Hoặc một hầu gái phụ trách nấu nướng?” Mức lương 12 Bảng một tuần đủ dư dả để thuê vài người!
Dựa trên thông tin từ mấy tờ báo, nếu được cung cấp ăn uống và nơi ở thì tiền thuê một đầu bếp bình thường có giá khoảng giữa 12 và 15 Saule một tuần. Thậm chí không tới 1 Bảng. Thuê người giúp việc nhà còn rẻ hơn. Mức lương hàng tuần của họ chỉ dao động từ 3 Saule 6 Penny đến 6 Saule. Hiển nhiên là không thể hy vọng họ có bất kỳ kỹ năng nấu nướng nào được.
Không đúng. Với món nợ 30 Bảng thì việc lão Neil không thuê bất kì đầu bếp hay người hầu nào mới là bình thường.
“Hình như mình lại hỏi một câu không nên hỏi rồi..” Klein thầm nghĩ.
Trong lúc Klein đang thấy hối hận, lão Neil thoải mái lắc đầu: “Tôi thường thử nghiệm nghi lễ ma thuật, nghiên cứu những vật phẩm phi phàm và đọc những tài liệu liên quan tại nhà. Cho nên tôi sẽ không và cũng chẳng thể nào mà thuê người thường về làm đầu bếp, vệ sinh hay là giúp việc được. Cùng lắm cũng chỉ mướn vài người về dọn dẹp nơi này thường nhật mà thôi. Còn nữa, nếu họ không phải là người thường thì cậu có nghĩ là họ sẽ nhận làm những công việc tầm thường thế này không?”
“Hình như tôi vừa hỏi một câu ngớ ngẩn nhỉ. Có lẽ bởi tôi sẽ không làm mấy thứ liên quan đến thần bí học ở nhà.” Klein rụt rè giải thích.
Lão Neil đã đứng dậy từ lâu, đội chiếc mũ phớt tròn vành lên và lầm bầm khi bước ra ngoài cửa: “Sao tôi lại ngửi thấy mùi gan ngỗng chiên nhỉ… Một khi cái giấy nợ được giải quyết dứt điểm, tôi chắc chắn phải đi ăn nó mới được! Bữa trưa sẽ là thịt lợn nướng nguyên miếng sốt táo. Không, nhiêu đó còn chưa đủ. Phải có thêm xúc xích với khoai nghiền nữa…”
“Ông đang làm tôi đói đấy…” Klein nuốt nước bọt trong khi bắt kịp lão Neil và hướng đến trạm xe công cộng gần đó.
Quay về phố Zouteland, lão Neil đột nhiên “ô” lên lúc vừa bước xuống xe: “Tôi vừa nhìn thấy gì vậy? Ôi Nữ thần, tôi đang nhìn thấy cái gì thế này?”
Lão đột nhiên trở nên nhanh nhẹn như một thanh niên mười bảy, mười tám tuổi khi lướt sang bên đường rồi nhặt một món đồ lên.
Klein tò mò tới gần. Khi quan sát cẩn thận hơn, anh nhận ra được đó là một chiếc ví được gia công tốt.
Vì thiếu kinh nghiệm nên Klein khó mà phân biệt được chất liệu chiếc ví màu nâu sẫm này làm từ da trâu hay da cừu. Nhưng anh nhận ra cái logo nhỏ màu xanh nhạt được thêu ở mặt trên chiếc ví – một con chim bồ câu trắng đang sải cánh như đang sẵn sàng để bay.
Đó là ấn tượng đầu tiên của Klein. Điều thứ hai anh để ý đến là xấp tiền giấy nằm căng phồng trong chiếc ví.
Đó là những Bảng vàng có mực đen trên nền xám, chí ít có 20 tấm trở lên!
Có hơn hai mươi tờ tiền màu xám được in bằng mực đen – đây là đồng bảng vàng!
Lão Neil mở ví, cẩn thận nhìn kỹ xấp tiền trước khi “chậc” một tiếng: “Đều là tờ 10 Bảng. Ôi ‘người sáng lập’, ‘người bảo vệ’ William I đáng kính. Nữ thần ơi, ròng rã 30 tờ. Ngoài ra còn có vài tờ 5 Bảng, 1 Bảng và 5 Saule nữa.”
“Hơn 300 Bảng? Đây mới thực sự đáng để gọi là một khoản tiền lớn! Dù có phấn đấu 1 năm thì mình có lẽ cũng không thể kiếm được chừng đó…” Klein nghĩ thầm, hơi thở bất giác trở nên nặng nhọc.
Bởi Bảng Vàng có giá trị rất cao, việc nhặt một chiếc ví thế này chẳng khác nào nhặt được một vali tiền giấy ở kiếp trước.
“Không biết quý ông nào đã đánh rơi nó. Ông ta chắc chắn không thể nào là một người bình thường được.” Klein bình tĩnh phân tích.
Chiếc ví thế này rõ ràng không phải của một quý cô.
“Không cần quan tâm ông ta là ai.” Lão Neil cười khúc khích, “Chúng ta cũng không có ý đồ chiếm hữu số tiền không thuộc về bản thân này. Cứ đợi một chút. Tôi tin chắc quý ông đó sẽ sớm quay lại tìm thôi. Đây không phải là thứ mà ai cũng có thể từ bỏ được.”
Klein thở phào nhẹ nhõm khi có một cái nhìn mới về đạo đức của lão Neil.
Anh đã lo lắng về việc lão có thể sẽ sử dụng “món quà từ Nữ thần” như một cái cớ để dùng số tiền vào việc trả nợ. Nếu là như thế thật thì anh vẫn còn đang suy nghĩ làm cách nào để ngăn chặn và thuyết phục lão.
Đây chính là “làm gì thì làm, nhưng chớ gây tổn thương” sao? Klein đột nhiên hiểu ra.
Chưa đầy một phút sau, một cỗ xe ngựa bốn bánh sang trọng nhanh chóng tiến đến chỗ hai người đang đứng chờ. Trên hông xe được trang trí hình chim bồ câu trắng sải cánh màu lam nhạt.
Cỗ xe dừng lại, và một người đàn ông trung niên mặc vest đen thắt nơ cùng màu bước xuống. Ông ta nhìn vào chiếc ví, cởi mũ ra và lịch sự nói, “Chào ngài, chắc hẳn đó là ví của ông chủ tôi.”
“Văn chương của anh chứng minh tất cả, nhưng tôi cần xác minh thêm một lần nữa. Đây là trách nhiệm đối với tất cả mọi người. Xin hỏi trong ví có bao nhiêu tiền?” Lão Neil lịch sự đáp lại.
Người đàn ông trung niên giật mình, lập tức nở nụ cười tự giễu: “Một quản gia thì không nên biết rõ trong ví của chủ nhân có bao nhiêu tiền. Thứ lỗi, xin cho phép tôi đi hỏi ông chủ.”
“Hãy làm những gì anh muốn.” Lão Neil ra dấu mời.
Một lúc sau, người đàn ông quay trở lại và đáp: “Hơn 300 Bảng, ít hơn 350 Bảng. Ông chủ tôi không nhớ rõ con số chính xác.”
“Không nhớ sao? Nếu có nhiều tiền như vậy thì mình chắc chắn lúc nào cũng phải đếm đi đếm lại chúng…” Lòng Klein vô cùng ghen tị.
Lão Neil gật đầu và trao lại chiếc ví: “Dưới sự chứng giám của Nữ Thần, thứ này thuộc về anh.”
Người đàn ông trung niên cầm lấy chiếc ví và đếm sơ qua trước khi rút ra ba tờ 10 bảng: “Ngài Deweyville là ông chủ của tôi. Ông ấy muốn khen ngợi lòng tốt của ngài. Đây là thứ mà người trung thực nên được nhận. Xin đừng từ chối nó.”
Ngài Deweyville? Người sáng lập Công ty ký gửi Deweyville? Ngài Deweyville, người đã cung cấp những căn hộ rẻ tiền cho tầng lớp lao động? Klein tức khắc nhận ra cái tên này. Ông ta là tước sĩ chỉ biết làm những việc mơ mộng mà Benson từng nhắc đến.
“Cảm ơn ngài. Ngài quả thật là một quý ông tốt bụng và hào phóng.” Lão Neil cầm ba tờ tiền không chút ngượng ngùng.
Khi xe ngựa của ngài Deweyville đã đi xa, bốn phía không có người nào, lão bèn quay lại nhìn Klein và phẩy phẩy những tờ tiền trên tay: “30 Bảng. Vấn đề hóa đơn được giải quyết.
“Tôi đã nói rồi. Nó sẽ được giải quyết theo cách hợp lý nhất.
“Đây chính là sức mạnh của ma thuật.”
“Vậy mà cũng được sao?” Klein choáng váng.
Vài phút sau, anh đặt chân lên cầu thang dẫn tới công ty bảo vệ và phân vân hỏi: “Ông Neil, sao ông không cầu xin nhiều hơn?”
“Không được tham lam. Đặc biệt là khi thực hiện nghi lễ ma thuật. Đó là yếu tố then chốt giúp những 'Kẻ Dòm Ngó Bí Ẩn' có thể sống lâu.” Lão Neil vui vẻ giải thích.
#Chú Thích:
(1) Đạo giáo có một câu nói: Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.
(2) Chú văn ma thuật được trích và cải biên từ Wicca: A Guide for the Solitary Practitioner, xuất bản lần đầu năm 1988, tác giả Scott Cunningham.